Hệ thống âm thanh, camera quan sát, khóa cửa điện tử
Hệ thống âm thanh, camera quan sát, khóa cửa điện tử
Việt Nhật - Mang công nghệ vào ngôi nhà bạn Giải Pháp CN Việt Nhật: Hệ thống truyền hình

Chào mừng bạn đến với VietNhatBlog

Bài Viết

Wednesday, December 11, 2013

Truyền hình An Viên là dịch vụ truyền hình trả tiền mang tên An Viên, do Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn cầu (AVG) cung cấp. Truyền hình An Viên được truyền dẫn trên hệ thống truyền hình kỹ thuật số vệ tinh (DTH) và hệ thống truyền hình kỹ thuật số mặt đất (DTT). Truyền hình An Viên ứng dụng những công nghệ tiên tiến nhất thế giới và đứng đầu châu Á trong việc sử dụng công nghệ truyền hình kỹ thuật số mặt đất thế hệ 2 (DVB-T2), chuẩn nén Video MPEG4, mạng đơn tần SFN.

Tổng quát hệ thống truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh, truyền hình kỹ thuật số, truyền hình bóng đá K+ Kplus, truyền hình An Viên - AVG, Vinasat...Truyền hình Cáp CATV System, Thuật ngữ CATV xuất hiện đầu tiên vào năm 1948 tại Mỹ khi thực hiện thành công hệ thống truyền hình cáp hữu tuyến ( Cable Television ). Một năm sau, cũng tại Mỹ hệ thống truyền hình anten chung ( CATV – community Antenna Television ) cung cấp dịch vụ thuê bao bằng đường truyền vô tuyến đã được lắp đặt thành công. Từ đó, thuật ngữ CATV được dùng để chỉ chung cho các hệ thống truyền hình cáp vô tuyến và hữu tuyến. 
bên cạnh đó truyền hình kỹ thuật số vệ tinh, IPTV…và truyền hình kỹ thuật số mặt đất, là hình thức phát sóng mới với rất nhiều ưu điểm. Hiện nay, truyền hình kỹ thuật số vệ tinh  hình thức phát sóng phát sóng kỹ thuật số phổ biến nhất trên thế giới với phạm vi phủ sóng rộng, Truyền hình kỹ thuật số (DTV)  một hệ thống viễn thông phát và nhận tín hiệu hình ảnh và âm thanh bằng các tín hiệu kỹ thuật số, truyền hình Analog đã và đang dần nhường chỗ cho truyền hình kỹ thuật số HD, truyền hình giải trí tương tác đa phương tiện ZTV - Không chỉ  xem, Lắp đặt Truyền hình ZTV để giải trí không giới hạn, đầu thu kỹ thuật số thông minh ztivi.
 
GÓI NHƯ Ý
Bao gồm 59 kênh với 57 kênh SD và hai kênh HD (An Viên HD và FTV HD)

Thông tin gói cước:66.000 VNĐ/ tháng
Chi phí đóng lần đầu:1.300.000 VNĐ      ( Khuyến mại 6 tháng thuê bao)
Lưu ý: Giá trên chưa bao gồm công lắp đặt và các vật tư đi kèm.
GÓI CAO CẤP
Bao gồm 65 kênh với 9 kênh HD độ phân giải cao đặc sắc: An Viên HD, AXN HD, ESPN HD, HBO HD, StarMovies HD, Star World HD, NGC HD, Fashiontv HD, Discovery HD

Thông tin gói cước:88.000 VNĐ/ tháng
Chi phí đóng lần đầu:1.500.000 VNĐ         ( Khuyến mại 6 tháng thuê bao)

Lưu ý: Giá trên chưa bao gồm công lắp đặt và các vật tư đi kèm.
Đăng ký sử dụng ngay hôm nay để trải nghiệm truyền hình độ nét cao với công nghệ hiện đại nhất thế giới cuả truyền hình an viên ....
Lắp đặt truyền hình , hộp giải trí tương tác đa Phương tiện ZTV, đầu thu phát 3D, kỹ thuật số avg, truyền hình số vệ tinh, đầu thu truyền hình, avg truyền hình, đầu kỹ thuật số, dau ky thuat so, dau thu kts, dau ky thuat so hd, dau kts, đầu kts, đầu thu kỹ thuật số, đầu thu vệ tinh

Tổng Đài Tư Vấn Lắp Đặt trên toàn quốc : 1900 7166 - 0926 171 666
Hoặc truy cập: http://www.vietnhattech.com.vn

Hiện nay, ở Việt Nam các đài truyền hình và một số nhà cung cấp dịch vụ đã đưa ra các dịch vụ truyền hình tương tự, truyền hình kỹ thuật số, truyền hình cáp…Sau đây là cách nhìn tổng quan về các dịch vụ truyền hình.
TRUYỀN HÌNH TƯƠNG TỰ :     
_  Là công nghệ truyền hình phổ biến nhất và hiện đang được sử dụng rộng rãi trước đây. Gọi là TH tương tự vì các trạm thu phát đều là thiết bị tương tự , tín hiệu thu phát cũng là tín hiệu tương tự . Tín hiệu được truyền dẫn trong không gian thông qua trạm anten phát , vệ tinh mặt đất hoặc phát lên vệ tinh điạ tĩnh rồi phát xuống trở lại . Thiết bị đầu cuối để thu được có thể là anten.
      * Đặc điểm :
        _  Chất lượng hình ảnh và âm thanh không cao , phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : chất lượng của thiết bị đầu cuối , yếu tố thời tiết ( nắng , mưa …). Và đặc biệt là chi phí rất rẻ do chỉ cần có anten thu và tivi là có thể xem được vài chương trình.
  
       2 . TRUYỀN HÌNH SỐ :

       _ Trên thế giới các nước đang phát triển dã triển khai thử nghiệm công nghệ truyền dẫn phát sóng số (vệ tinh, vi ba ,cáp , phát sóng mặt đất ) từ những năm của thập kỉ 90, đã và đang hoàn thiện . hiện nay 1 số nước đã phát sóng mặt dất bao gồm 1693  kênh ( gồm 1572 kênh UHF , và 121 kênh VHF ).
       _ Tín hiệu âm thanh và hình ảnh sau khi đã xử lý, được chuyển đổi từ analog sang digital thông qua bộ biến đổi ADC ( tín hiệu tương tự sang tín hiệu số ) , sau đó sẽ phát đi . Việc truyền dẫn có thể thực hiện trong không gian giống truyền hình tương tự hoặc có thể truyền thông qua dây dẫn ( truyền hình cáp ) . Khi tín hiệu đến nhà thuê bao thì phải có bộ giải mã tín hiệu để chuyển đổi tín hiệu từ số sang tương tự.
       _ Nhà khai thác truyền hình thường nhận được nội dung từ nhiều nguồn , bao gồm video địa phương , các kênh truyền hình cáp  và vệ tinh , các nội dung này lại được xử lí truyền dẫn tiếp đến người xem bằng cách đưa tín hiệu qua hệ thống truyền dẫn phát sóng truyền hình số.
       _ Các khối chức năng trong hệ thống này gồm : thu nhận tín hiệu , nén và mã hoá , điều chế , hệ thống truy cập có điều kiện , hệ thống quản lí mạng .
     * Đặc điểm :
       _ Máy phát số phát được 9 chương trình số riêng biệt trên cùng 1 kênh phát , trong khi máy phát analog chỉ phát được duy nhất 1 chương trình .tính hơn hẳn ( cả về kĩ thuật – chất lượng cao , cả về hiệu quả kinh tế – phát nhiều chương trình ) rất thuận tiện cho việt qui hoạch mạng phát sóng số mặt đất.
      _ Công suất máy phát số không cần lớn như máy phát analog ( nếu cùng 1 diện phủ sóng ) vì mức cuờng độ trường cần ở điểm thu thấp hơn nhiều so với  tương tư.̣
      _ Nếu dùng tiệu chuẩn phát sóng châu âu DVB-T sử dụng mạng đơn tầng có thể tạo ra hệ thống mạng phát sóng quốc gia có 1 t/số phát . không phải qui hoạch t/số cho từng điểm
      _ Tránh đuợc hiện tượng sóng phản xạ từ nhiều hướng gây nên ảnh bóng của TV mà hệ phát analog không loại trừ được . với tiêu chuẩn DVB-T thực hiện thu tốt tín hiệu số trong mọi điều kiện kể cả trên xe hơi di động , ít bị ảnh hưởng vật chắn , mở ra khả năng chế tão sản xuất máy thu hình cá nhân bỏ túi .
       _ Chất lượng hình ảnh tiếng nói thu được đẹp nét gần như ảnh , tiếng thực ,chất lượng âm thanh và hình ảnh khá cao do sử dụng kỹ thuật số , tuy nhiên chi phí cũng cao hơn  do phải mua thêm bộ giãi mã tín hiệu , đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của môi trường nếu truyền trong không trung .

    3. TRUYỀN HÌNH CÁP :
  
         _ Hiện nay cả nước đã có 19 đơn vị cung cấp dịch vụ trả tiền  bằng nhiều loại hình thức công nghệ khác nhau gồm truyền hình cáp CATV , viba kênh MMDS , DTH  truyền hình số mặt đất , trong đó riêng truyền hình cáp có 16 đơn vị ứng dụng truyển khai .măc dù công nghệ CATV được ứng dụng phổ biến nhưng lại đang bộc lộ những hạn chế về chất lượng và các đài phát thanh truyền hình ứng dụng công nghệ này đang đứng trước nguy cơ bị “tụt dốc” về công nghệ.

         _ CATV là  dịch vụ phân phối kênh truyền hình của các nhà khai thác cáp tới các thuê bao qua hệ thống cáp quang hay cáp đồng trục . các nhà cung cấp dịch vụ CATV ở việt nam đang dùng công nghệ tương tự để cung cấp các chương trình truyền hình trả tiền chủ yếu là qua đường cáp đồng trục . theo đánh giá của Bộ BCVT , hệ thống CATV đang phát triển tự do , sử dụng sóng tần số tuỳ tiện , không đúng tiêu chuẩn tần số truyền dẫn cáp .

         _  Là công nghệ truyền dẫn vô tuyến thông qua cáp , cáp được sử dụng ở đây có thể là cáp quang hay cáp đồng trục . Đồng thời tín hiệu truyền dẫn là tín hiệu kỹ thuật số , do đó ở đầu cuối cần có bộ thu và giải mã . Thường tín hiệu thu tại đầu thuê bao lớn hơn tín hiệu truyền từ vệ tinh và tương đối ổn định , nhưng do truyền trong môi trường đồng nhất ( trong lõi cáp ) , nên cũng chịu những sóng phản xa tương đối mạnh do hiện tượng không phối hợp trở kháng hoàn toàn .
                                                     Sơ đồ khối tổng quát của hệ thống truyền hình cáp
                                     Sơ đồ khối tổng quát của hệ thống truyền hình cáp

     * Đặc điểm : băng thông lớn ,chất lượng tín hiệu rất tốt , chất lượng còn tùy thuộc vào từng loại cáp để truyền tín hiệu ( trên đường truyền bị suy hao ) . Ngoài ra có thể tận dụng đường truyền cho các mục đích truyền dữ liệu , internet ……….Hiện nay truyền hình cáp có 2 loại : truyền tín hiệu bằng dây dẫn _ Truyền hình cáp hữu tuyến và loại truyền vô tuyến .
      * Nhược điểm: lại phụ thuộc rất lớn vào mạng truyền dẫn , nếu mạng truyền dẫn không tốt thì chất lượng các chương trình cũng bị xấu đi .
       _ Vào những năm 60, hệ thống anten thu công cộng ra đời gọi tắt là MATV ( Master Antenna Television ).
                                              Sơ đồ hệ thống truyền hình SMATV tòa nhà khách sạn,Sơ đồ khối tổng quát của hệ thống truyền hình cáp
       _ Các toà nhà cao tầng khu chung cư biệt thự chỉ cần có một vài anten thu tín hiệu, qua bộ khuếch đại và bộ phân chia nhiều đường, tới từng phòng trong căn hộ. Một số nước phát triển ngoài các hệ thống truyền hình quảng bá của quốc gia, còn có các hệ thống truyền hình tư nhân. Những hãng lớn có hệ thống phát và kiểm soát thuê bao riêng biệt. Những hãng nhỏ phục vụ trên một địa bàn riêng biệt thường sử dụng hệ thống truyền dẫn cáp ( cable ttelevision ).
       _ Những năm gần đây, các công nghệ phát thanh truyền hình liên tục ra đời đã giải quyết thành công vần đề mã nguồn ( nén audio và video ) nhằm mục đích làm giảm tốc độ bit với độ suy giảmchất lượng đến mức có thể chấp nhận được và mã kênh (sử dụng các mã sửa lỗi và kỹ thuật điều chế nhằm đạt được hiệu suất phổ tần tốt nhất ). Khi quá trình mã nguồn và mã kênh được thực hiện thì sẽ có một dòng dữ liệu được sử dụng để điều chế sóng mang tín hiệu chương trình . Vậy nhằm mục đích tối ưu hóa những đặc trưng riêng biệt cuả từng kênh truyền để đạt được tín hiệu truyền tốt nhất , nên mỗi phương thức truyền dẫn thường chọn các kỹ thuật điều chế tín hiệu sóng mang khác nhau dể có thể đạt được yêu cầu về chất lượng âm thanh và hình ảnh .

    **  Hiện nay đã có một số đài PTTH ở VIỆT NAM  đang tìm hiểu chuyển sang sử dụng công nghệ số , tuy nhiên đây cũng chỉ là giải pháp tình thế . vì theo các chuyên gia truyền hình , việt phát triển truyền hình số không phù hợp với điều kiện ở Việt Nam ,các đô thị ở Việt Nam đang qui hoạch lộn xộn , để đưa các tín hiệu CATV đến thuê bao nhà cung cấp phải kéo dây , treo cáp trên các cột điện làm mất mỹ quan đô thị. Trên thế giới , nhiều nước đã chấm dứt phát sóng truyền hình tương tự . Tại Việt Nam , đến năm 2015 sẽ thực hiện số hóa tại các thành phố lớn, sau đó triển khai tại các tỉnh thành khác để đến năm 2020 là hoàn tất số hóa toàn bộ các dịch vụ truyền hình.
Tác giả bài viết: Thảo Nguyên
Nguồn tin: vietnhattech
Đây là một trong nhiều dạng của dịch vụ truyền hình trả tiền mà Việt Nam đang sử dụng hiện nay. Khái niệm truyền hình cáp dây dẫn gồm 2 yếu tố: là truyền hình trả tiền và cung cấp tín hiệu qua dây dẫn.Truyền hình cáp dây dẫn, viết tắt là CATV.
Do cụm từ tiếng Anh Collective Antenna Television hay Community Antenna Television, đều có thể hiểu là anten tập thể, anten cộng đồng, anten chung. Tuy tiếng Anh vẫn còn cụm từ “antenna” dù đây là thuật ngữ chỉ truyền hình không anten, vì giai đoạn đầu CATV chỉ là phương thức nối dài kỹ thuật truyền hình phát sóng trong không gian, sử dụng anten phát và anten thu.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CATV
                                   mô hình hệ thống truyền hình cho văn phòng tòa nhà, hệ thống truyền hình nhà máy
Những buổi truyền hình đầu tiên trên thế giới đều “truyền” qua dây dẫn, có nghĩa là hình ảnh từ địa điểm này được đưa đến một địa điểm khác bằng dây cáp. Lúc đó, đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, chưa thể truyền hình bằng sóng bức xạ ra không gian. Nhưng loại truyền hình bằng dây này chưa phải là công nghệ truyền hình cáp dây dẫn đang nói đến.
Truyền hình cáp dây dẫn có thể coi là được khai sinh vào cuối những năm 50 ở Hoa Kỳ. Trong quá trình xây dựng mạng truyền hình quảng bá phát sóng VHF, các nhà kỹ thuật truyền hình mỹ đã vấp phải một vấn đề khó giải quyết là vùng tối ở những khu vực có nhiều núi non. Giải pháp được tìm ra lúc đó là nền tảng của công nghệ CATV hiện đại: Thu sóng truyền hình tại một điểm thu tốt rồi dẫn tín hiệu đến vùng tối gần đó bằng dây dẫn và cũng trên những tần số dùng cho truyền hình.
Sau khi triển khai CATV để đáp ứng nhu cầu nói trên, người ta nhận thấy CATV có ưu điểm hết sức lớn lao là giải quyết được vấn đề mà truyền hình Hoa Kỳ vấp phải trên đường phát triển. Đó là mâu thuẫn giữa việc gia tăng kênh phát sóng với tình trạng cạn kiệt quỹ tần số và vấn đề can nhiễu. Những kênh truyền hình mới phát qua dây dẫn không làm nhiễu sóng các kênh truyền hình đã có và truyền hình dây dẫn đã là một vùng đất mới để xây dựng các đài truyền hình cỡ nhỏ với một số lượng khá lý tưởng. Từ đây, các nhà kỹ thuật truyền hình Mỹ đã làm được điều mà trước đây họ rất lúng túng.
Nhiều kênh truyền hình chỉ phát qua dây dẫn đã được xây dựng và hoạt động rất hiệu quả. Mạng dây dẫn không còn chỉ ở những vùng tối, mà nó dần dần mở rộng ra những vùng thu tốt sóng truyền hình. Và rồi người ta “khám phá” một công năng lợi hại của truyền hình dây dẫn: Truyền hình trả tiền! Từ đó CATV đồng nghĩa với truyền hình trả tiền.
Thập niên 70, công nghệ CATV đã phát triển ở nhiều quốc gia, đặc biệt là châu Âu và Bắc Mỹ. Mãnh đất màu mỡ để CATV phát triển không phải là những vùng tối khu vực núi non như ở Mỹ những năm trước, mà là những thành phố lớn đông đúc dân cư, nơi mà người ta dễ dàng thi công mạng cáp với giá thành thấp nhất và là thị trường thuê bao tiềm năng.
Ngày nay, truyền hình cáp dây dẫn không còn là một thứ xa xỉ phẩm của các nước công nghệ truyền hình phát triển. Mạng truyền hình dây dẫn là mạng không thể thiếu bên cạnh mạng điện và điện thoại ở các thành phố, thị trấn, thậm chí huyện lỵ, xóm làng. Từ năm 1993, mạng CATV đã được xây dựng ở TPHCM và không lâu sau đó ở Hà Nội. Từ năm 2003, Trung tâm Truyền hình Cáp Đài Truyền hình TPHCM đã triển khai mạng truyền hình cáp CATV ở TPHCM.
Hiện nay, nhiều địa phương ở Việt Nam đã có mạng CATV ( Khánh Hòa, Cần Thơ, Hải Phòng, Nghệ An, Đà Nẵng, Qui Nhơn…).
Trong quá trình số hoá công nghệ truyền hình, tiêu chuẩn truyền hình số cho CATV đã được giới thiệu với tên gọi DVB-C vào giữa thập niên 90 và đã được khai thác thương mại.
ƯU ĐIỂM CỦA CATV
So với truyền hình phát sóng trong không gian, CATV có nhiều ưu điểm:
- Không bị ảnh hưởng bởi địa hình là ưu điểm phải kể đến trước tiên. Người ta đã khai sinh ra CATV cũng chính từ khả năng này. CATV đặc biệt thích hợp cho đô thị nhiều nhà cao tầng, nơi không thể thu được sóng truyền hình phát từ các tháp anten vô tuyến.
- Không cần sử dụng anten, dù là anten trong nhà. Thay vào đó là đường dây nối vào nhà và một ổ cắm tín hiệu. Chỉ cần nối với ổ cắm anten ở TV và ổ cấp tín hiệu là sẽ có hàng vài chục, thậm chí vài trăm chương trình truyền hình để xem. Hệ quả của ưu điểm này không chỉ là sự tiện lợi mà nó còn giá trị ở nhiều mặt. Trong thực tế, có nhiều nơi không thể lắp đặt anten do điều kiện kiến trúc, yêu cầu thẩm mỹ đô thị hoặc do điều kiện thời tiết (như ở Canada có những vùng băng giá gió rét, rất khó lắp đặt và bảo trì anten xương cá). CATV giúp khán giả vẫn có thể xem truyền hình trong những hoàn cảnh thu sóng truyền hình phức tạp nhất. Không có anten, cũng có nghĩa là, không có nhiều vấn đề phiền toái, như chống sét, bảo trì anten…
- Không bị ảnh hưởng bởi thời tiết: chịu sự tác động lớn của thời tiết là một trong những nhược điểm của truyền hình vô tuyến. Khi trời ẩm, không khí nhiều hơi nước, việc truyền sóng truyền hình VHF, UHF có phần thuận lợi hơn so với khi trời nắng ráo khô hanh. Thời điểm lúc trời vừa mưa xong là thời gian vàng để thu các đài truyền hình ở xa tín hiệu yếu: Hình ảnh rõ hơn, số kênh xem được nhiều lên hẳn…Ban đêm thu sóng được dễ hơn ban ngày, lúc trời sương gió thì thu sóng khó hơn những ngày quang đãng…
Ở vùng nhiệt đới như nước ta, áp lực thời tiết đối với việc xem chương trình truyền hình có thể nói nhẹ hơn nhiều so với những xứ lạnh, nơi mà băng tuyết tác động mạnh đến việc thu tín hiệu qua anten ngoài trời.
CATV đã giúp cho việc thu xem chương trình truyền hình thoát khỏi sự “quậy phá” của thời tiết. Ở một hệ thống CATV hoàn hảo, chất lượng chương trình truyền hình là như nhau 24/24 giờ, 7 ngày/tuần và 365 ngày/năm (tuy vậy, nếu thi công không hoàn hảo, tín hiệu truyền hình qua dây dẫn vẫn giảm sút nghiêm trọng trong khi trời mưa, vì có thể các tiếp điểm trong hệ thống dây không tiếp xúc tốt, hình ành thu được sẽ phủ hạt).
- Khả năng tăng số kênh sóng ở CATV lớn hơn nhiều so với truyền hình vô tuyến VHF-UHF. 12 kênh VHF và gần 50 kênh UHF đã là giới hạn cuối cùng cho việc phát sóng truyền hình vô tuyến mặt đất (analog). Tuy nhiên, trong thực tế, số kênh khai thác chỉ khoảng 1/3 số lượng trên. Để tránh nguy cơ can nhiễu, theo kỹ thuật trước đây, người ta không thể sử dụng những kênh sóng lân cận nhau tại cùng một địa điểm (thí dụ Đài Truyền hình TPHCM không thể phát trên 2 kênh kế tiếp nhau như 7, 8 mà phải cách quảng một kênh). Khi một kênh sóng đã sử dụng thì trong một bán kính nhất định không thể sử dụng kênh sóng đó, tuỳ thuộc vào địa hình, công suất phát, độ cao anten phát… (thí dụ Đài truyền hình TPHCM phát kênh 9 công suất 20kW từ tháp 120m thì trong điều kiện đồng bằng, không thể sử dụng kênh 9 trong bán kính 200km cách TPHCM). Thực tế cho thấy, tại khu vực đã sử dụng cạn kiệt quỹ tần số phát sóng truyền hình mặt đất như Nam bộ, số đài thu được tại những điểm trung tâm cũng khoảng 20 kênh. Trong giới hạn ít ỏi như vậy, việc nhiễu sóng cũng đã xảy ra, nói chi đến tình huống gia tăng hơn nữa số kênh sóng.
Từ thập niên 70, tại các nước công nghiệp phát triển ở châu Âu, Bắc Mỹ, đây là một vấn đề kỹ thuật lớn. Nhu cầu xem được nhiều kênh sóng của khán giả là nhu cầu tăng lên không ngừng và tần số phát hình đã trở thành đối tượng giành giật giữa các đài truyền hình. Cường độ của mâu thuẫn càng tăng trong điều kiện khoa học công nghệ truyền hình ngày càng phát triển, trang bị cho đài truyền hình đã trở nên rẻ tiền và phổ thông. Để có một đài truyền hình, vốn, thiết bị không còn là vấn đề, mà vấn đề có tần số phát hay không.
CATV và lối thoát của “bi kịch” kỹ thuật đó. Khán giả truyền hình Mỹ là những khán giả truyền hình đầu tiên trên thế giới lợi ích mà CATV đem lại đối với việc gia tăng kênh sóng. Những đường dây cáp ban đầu chỉ là phương tiện nối dài truyền hình phát sóng mặt đất VHF, UHF đã là “sân chơi” của các đài truyền hình địa phương, truyền hình tư nhân với qui mô nhỏ. Lý do để CATV có mặt ở những nơi vẫn thu tốt sóng truyền hình VHF, UHF chính là ưu điểm này. Khán giả cần có CATV để có thể xem thêm nhiều kênh. Khả năng tăng kênh của CATV được khai thác đến nỗi 60 kênh truyền hình VHF UHF của TV trở nên thiếu hụt và các hãng điện tử phải sản xuất thên loại TV có băng tần truyền hình cáp, bổ sung thêm dải tần số cho truyền hình qua dây dẫn (những tần số dùng riêng cho CATV không được sử dụng để phát sóng trong không gian cho truyền hình vì nó đã được sử dụng cho mục đích khác trong truyền sóng).
Tiêu chuẩn truyền hình số dây dẫn DVB-C được thiết kế cũng trên cơ sở khai thác thế mạnh tăng kênh của CATV. Truyền hình cáp qua dây dẫn có thể phục vụ hàng ngàn kênh truyền hình và nhiều chức năng tương tác.
- CATV có chất lượng hình ảnh hơn hẳn truyền hình phát sóng vô tuyến analog: Chúng ta đều biết rằng tín hiệu truyền hình chỉ cho hình ảnh tối ưu nếu nó không quá mạnh và cũng không quá yếu. Nếu tín hiệu truyền hình đến được TV quá yếu, hình ảnh trên TV sẽ bị hạt, âm thanh sôi…Nếu tín hiệu truyền hình đến TV quá mạnh, hình ảnh sẽ bị uốn éo, nhảy giật, xé ngang xé dọc, âm thanh ù. Trong điều kiện thu được nhiều đài lý tưởng nhất, sự khác biệt cường độ trường trước hết sẽ loại trừ một số kênh nếu dùng cùng một loại anten. Nếu dùng anten có độ lợi cao, tín hiệu những đài truyền hình có công suất lớn và ở gần sẽ mạnh quá, có thể đến mức không xem được. Nếu điều chỉnh sử dụng anten độ lợi thấp, thì tín hiệu thu được từ những đài xa, công suất phát thấp sẽ yếu đi, và có thể cũng không xem được. Cân đối tín hiệu các kênh sóng thu được ở mức độ tối ưu để có được chất lượng hình ảnh tốt nhất cho các kênh là một bài toán khó và rất nhiều trường hợp không thể giải được một cách trọn vẹn. Thường thì kỹ thuật viên phải “hy sinh” chất lượng một số kênh nếu muốn bảo đảm chất lượng tối ưu một số kênh hoặc muốn bảo đảm số kênh tối đa.
Vấn đề trên được giải quyết bằng CATV. Với một mạng dây dẫn hoàn chỉnh, người ta có thể đảm bảo cường độ tín hiệu tất cả các kênh tại điểm thu trong mức độ tối ưu cho TV, hình ảnh mọi kênh rõ đẹp hầu như đồng đều.
Tín hiệu truyền qua CATV đạt chất lượng cao còn vì nó không có tín hiệu phản xạ do sóng điện từ trên đường lan truyền gặp chướng ngại vật như ở truyền hình vô tuyến mặt đất analog. Xem truyền hình CATV, khán giả hầu như không bực mình vì hiện tượng bóng ma như ở truyền hình vô tuyến mặt đất analog (trừ một số trường hợp thu phát lại kênh truyền hình phát sóng mặt đất trong điều kiện khó khăn, khiến tín hiệu có bóng ma ngay tại trung tâm CATV). Ưu điểm này có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh sóng truyền hình thu ở trung tâm các thành phố lớn hầu như đều bị hiện tượng sóng phản xạ, gây bóng ma phá nát hình ảnh.
Ưu thế chất lượng hình ảnh của CATV còn là khả năng hạn chế nhiễu rất tốt khi tín hiệu truyền trong dây dẫn. So với truyền hình phát sóng vệ tinh mặt đất VHF – UHF, tỷ lệ và mức độ nhiễu xâm nhập được vào đùơng dây CATV là thấp hơn rất nhiều. Các nguồn phát sóng vô tuyến, tia lửa điện ở bugi, môtơ…không dễ vượt qua lớp vỏ bọc của cáp đồng trục của CATV để tạo nên những màng vân đen, hay những chấm trắng như truyền hình phát sóng vô tuyến mặt đất.
- CATV rất thuận lợi để khai thác truyền hình trả tiền.Ưu điểm này thể hiện ở những điểm đã được phân tích là đơn giản, rẻ tiền, nhiều kênh và chất lượng cao.
Các nhà kỹ thuật vẫn có thể khai thác truyền hình trả tiền qua sóng truyền hình vô tuyến mặt đất VHF-UHF bằng cách mã hoá tín hiệu analog và giải mã cho thuê bao bằng thiết bị giải mã đặt cạnh TV. Tuy nhiên, chi phí khai thác sẽ tăng, vì cần đến thiết bị giải mã với bộ thu sóng độc lập. Bên cạnh đó, nhà kinh doanh truyền hình trả tiền chỉ có thể bán được một số ít chương trình truyền hình, vì không còn tần số đề truyền kênh sóng (dẫn đến giá thuê bao cho mỗi kênh sẽ vọt lên). Ngoài ra, các chương trình được bán không thể có chất lượng tốt trong một số điều kiện phát sóng vô tuyến mặt đất (có thể bị bóng, bị hạt, bị nhiễu). Bảo trì hệ thống anten thu của khách hàng luôn ở mức hoàn hảo để đảm bảo chất lượng của các chương trình truyền hình cũng là một vấn đề khi khai thác. Trước đây, ở Mỹ và châu Âu, người ta chỉ có thể mã hoá để bán một phần chương trình truyền hình (vài giờ/ngày) do không có kênh sóng. Các chương trình bán theo kiểu này phải là chương trình hấp dẫn “đặc biệt”. Các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền theo phương thức phát sóng vô tuyến mặt đất phần lớn cũng chính là các đài truyền hình. Giá cao, sản phẩm nghèo nàn, khách hàng chắc chắn hạn chế.
Đối với CATV, việc khai thác truyền hình trả tiền sẽ đơn giản như bán điện, nước, điện thoại. Công ty truyền hình cáp câu dây tín hiệu vào nhà khán giả thuê bao và cắt đường dây đó nếu họ không thu được tiền. Do đó giá thành sẽ hạ. CATV có thể truyền rất nhiều kênh truyền hình chất lượng ổn định, đồng đều nên giá thành cho mỗi kênh hạ hơn nữa. Với CATV, nhà cung cấp dịch vụ không còn phải chính là đài truyền hình , mà chỉ là các công ty trung gian, mua đi bán lại các chương trình. Các công ty truyền hình cáp sẽ mua tín hiệu từ nhiều đài truyền hình và nhiều nguồn (vệ tinh, từ các đài phát mặt đất, từ băng đĩa hình), cũng có thề tự sản xuất , tập hợp lại , phát qua đường day dẫn.
Nếu như trong các thập niên 50,60 thế kỷ XX, mạng CATV được xây dựng chủ yếu do các ưu điểm đáp ứng việc truyền tín hiệu không phụ thuộc vào địa hình thời tiết, mối dài hệ thống truyền hình vô tuyến mặt đất, thì trong các thập niên gần đây, nhu cầu CATV phát sinh do ưu điểm thuận lợi để khai thác truyền hình trả tiền, chất lượng cao, số lượng kênh phong phú…
                                         
NHƯỢC ĐIỂM CỦA CATV (ANALOG)
Bên cạnh nhũng ưu điểm vừa điểm qua, CATV có một số nhược điểm. Những nhược điểm này ngày càng làm chậm đi bước phat triển CATV. Đó là:
  • Việc triển khai CATV tốn rất nhiều chi phí đầu tư, công sức và thời gian. Để có một mạng CATV hoàn chỉnh cho một thành phố vài triệu dân, từ khi xây dựng đến khi hoàn tất có thể mất hàng chục năm.
  • Mạng CATV chỉ thích hợp cho các thành phố nơi có mật độ dân cư cao, không thích hợp với đại đa số lãnh thổ (vùng đồng ruộng, rừng núi, dân cư thưa thớt). Mật độ dân cư cáng thấp, chi phí triển khai CATV càng cao, vì dây dẫn, thiết bị khuếch đại…phải dùng nhiều, nhưng số người sử dụng lại không nhiều. Từ đó, CATV tỏ ra bất lợi so với các công nghệ khác.
  • Triển khai mạng CATV ở thành phố cũng có nhiều khó khăn, dây cáp chằng chịt sẽ làm mất mỹ quan thành phố (nếu đi nổi mà không đi ngầm dưới đất), việc bảo trì sửa chữa cũng rất phức tạp. Ở Mỹ, nơi CATV phát triển đầu tiên và mạnh hơn cả, người ta cũng phải lúng túng khi giải quyết vấn đề này. Thường có tình trạng nhiều công ty truyền hình cáp cùng muốn khai thác CATV ở một địa phương, nhưng vì khó khăn kể trên, thông thường chính quyền chỉ cho phép một đơn vị truyền hình cáp CATV hoạt động mà thôi. Do đó, việc đấu thầu rất căng thằng. Mạng cáp cũng không phải giăng mắc ở đâu cũng được, quá trình thi công phải qua rất nhiều va chạm, vướng mắc. Chi phí đầu tư càng trở nên nặng nề hơn.
  • So với truyền hình cáp vô tuyến, CATV có phạm vi phục vụ hoạt động hẹp hơn, số lượng thuê bao giới hạn hơn, tốc độ phát triển thuê bao chậm hơn. Do vậy chi phí cho việc mua bản quyền truyền hình tính trên mỗi thuê bao sẽ lớn hơn. Nhược điểm này có thể làm CATV trở nên đắt đỏ hơn so với các phương tiện truyền hình cap vô tuyến (có khả năng lớn hơn trong mở rộng thuê bao). Trong khi đó, thuê bao càng nhiều, lợi nhuận công ty truyền hình cáp càng cao, giá thuê bao càng hạ. Ở Mỹ, nhiều hãng CATV đã lao đao vì nhược điểm này. Họ bị các công ty truyền hình vệ tinh lấy đi khá nhiều khán giả, vì với số lượng thuê bao đông hơn, các công ty truyền hình cáp vệ tinh sẵn sàng mua độc quyền phát sóng nhiều kênh truyền hình với giá rất cao. Từ đó, các chương trình CATV trở nên nghèo nàn và đắt tiền hơn so với truyền hình cap vệ tinh DTH.
  • Chất lượng hình ảnh của công nghệ CATV analog tuy cao, nhưng vẫn kém hơn so với công nghệ truyền hình số đang được sử dụng ở truyền hình vệ tinh. Từ cuối thập niên 90, CATV analog dần dần mất đi ưu thế về chất lượng trước các công nghệ truyền hình vệ tinh kỹ thuật số. Khán giả truyền hình có thể dễ dàng nhận ra bằng mắt thường sự yếu kém chất lượng hình ảnh của CATV analog so với công nghệ số.
  • Ưu điểm đơn giản của CATV chỉ cần kết nối là có tín hiệu, trong nhiều trường hợp, lại là nhược điểm của công nghệ này. CATV rất dễ bị lấy “trộm” tín hiệu. Công ty truyền hình cáp rất dễ bị thất thu vì nạn xem “trộm”. Đây là vấn đề thường xảy ra trong giai đoạn triển khai CATV ở các nước đang phát triển. Tại Trung Quốc, Thái lan, Campuchia…tín hiệu một thuê bao có thể cung cấp nối dài cho hàng trăm TV xem “chùa”. Chìo cần kết nối đúng kỹ thuật vào đầu nối đến TV của một thuê bao, lắp thiết bị khuếch đại nếu cần thiết và chi phí ít ỏi cho bộ chia, là đã có thể hình thành một mạng cáp mối dài ngoài sự kiểm soát của công ty truyền hình cáp. Chẳng hạn như trường hợp chúng tôi đã từng gặp ở Quảng Châu, Trung Quốc, một nhà tập thể dùng chung tín hiệu truyền hình cáp từ một thuê bao và mấy chục TV chỉ trả chung chi phí một thuê bao (tính ra chỉ hơn 20.000đ VN/tháng, mỗi TV chỉ trả chưa đến 500đ VN/tháng). Còn ở Phnômpênh, Campuchia, công ty truyền hình cáp thường xuyên phải nhờ đến công an để giải quyết tình trạng xem lậu, nhưng xem ra không hiệu quả. Tín hiệu bị câu ngoài kiểm soát không gây tổn hại như câu trộm điện, nên rất khó phát hiện. Hơn nữa, tín hiệu có thể lấy bất kỳ nơi đâu từ đường dây trong nhà, như câu điện thoại song song, thời gian thực hiện chỉ vài chục phút, thiết bị sử dụng rẻ tiền, có sẵn trên thị trường. Để đối phó, các công ty truyền hình cáp phải mã hoá tín hiệu. Như vậy sẽ tốn thêm cho mỗi thuê bao một bộ giải mã. Do đó, CATV không còn rẻ tiền và đơn giản nữa.
Do những nhược điểm trên, đến cuối thế kỷ trước, sự phát triển của CATV tại các nước công nghệ truyền hình phát triển (Bắc Mỹ, châu Âu) đã chậm lại. Ở Mỹ, Direct TV, một hãng truyền hình vệ tinh, đã vượt qua các hãng truyền hình CATV, đọat ngôi vị dẫn đầu số lượng thuê bao. Các công ty truyền hình vệ tinh châu Âu trở thành tập đoàn khổng lồ xuyên quốc gia, trong khi các hãng truyền hình CATV chỉ có vai trò khiêm tốn ở từng thành phố, thị trấn. Còn ở Thái Lan, một nước đang phát triển, CATV phút chốc trở nên lép vế trước DTH do Công ty UBC triển khai, thủ đô Bangkok nằm giữa một rừng chảo. Ở Hongkong, nơi đã có mạng CATV hoàn chỉnh, khán giả đã lại bắt đầu sử dụng phương tiện truyền hình vệ tinh nhỏ gọn. Ở Nga, mạng truyền hình vệ tinh DTH Bonum thắng lớn trong cuộc đua với CATV …
WEBSITE : http://www.vietnhattech.com.vn EMAIL : infor@vietnhattech.com.vn

Hệ thống Truyền hình Cáp - Vệ tinh SMATV System/ CATV System, Hệ thống truyền hình tòa nhà, Truyền hình tại các văn phòng nhà máy khu công nghiệp
a. Mạng có cấu trúc hoàn toàn cáp đồng trục . ( Trunk – Feeder ) : Ưu điểm : Các thiết bị mạng đơn giản, giá thành thấp.
Tổng quát hệ thống truyền hình cáptruyền hình vệ tinhtruyền hình kỹ thuật số, truyền hình bóng đá K+ Kplus, truyền hình An Viên - AVG, Vinasat...Truyền hình Cáp CATV System, Thuật ngữ CATV xuất hiện đầu tiên vào năm 1948 tại Mỹ khi thực hiện thành công hệ thống truyền hình cáp hữu tuyến ( Cable Television ). Một năm sau, cũng tại Mỹ hệ thống truyền hình anten chung ( CATV – community Antenna Television ) cung cấp dịch vụ thuê bao bằng đường truyền vô tuyến đã được lắp đặt thành công. Từ đó, thuật ngữ CATV được dùng để chỉ chung cho các hệ thống truyền hình cáp vô tuyến và hữu tuyến, bên cạnh đó truyền hình kỹ thuật số vệ tinh, IPTV…và truyền hình kỹ thuật số mặt đất, là hình thức phát sóng mới với rất nhiều ưu điểm. Hiện nay, truyền hình kỹ thuật số vệ tinh  hình thức phát sóng phát sóng kỹ thuật số phổ biến nhất trên thế giới với phạm vi phủ sóng rộng, Truyền hình kỹ thuật số (DTV)  một hệ thống viễn thông phát và nhận tín hiệu hình ảnh và âm thanh bằng các tín hiệu kỹ thuật số, truyền hìnhAnalog đã và đang dần nhường chỗ cho truyền hình kỹ thuật số HD, truyền hình giải trí tương tác đa phương tiện ZTV - Không chỉ xem, Lắp đặt Truyền hình ZTV để giải trí không giới hạn, đầu thu kỹ thuật số thông minh ztivi.
                          
                                        Hệ thống Truyền hình Cáp - Vệ tinh SMATV System/ CATV System, Hệ thống truyền hình tòa nhà, Truyền hình tại các văn phòng nhà máy khu công nghiệp

a. Mạng có cấu trúc hoàn toàn cáp đồng trục
 . ( Trunk – Feeder ) :
  
       * Ưu điểm : Các thiết bị mạng đơn giản, giá thành thấp.
   
       * Nhược điểm :
      
          _  Do truyền tín hiệu bằng cáp đồng trục có mức suy hao lớn nên khi sử dụng nhiều bộ khuếch đại dẫn đến chi phí cho mạng tăng cao, đồng thời kéo theo các chi phí khác như nguồn cung cấp cho bộ khuếch đại và điện năng tiêu thụ của mạng cũng tăng.
     
          _ Do sử dụng các bộ khuếch đại để bù suy hao nên nhiễu đường truyền tác động vào tín hiệu cùng với nhiễu nội bộ của bộ khuếch đại tích tụ lại theo chiều dài đường truyền dẫn đến càng xa trung tâm, chất lượng tín hiệu càng giảm.
Đây là công nghệ của những năm 80 trở về trước và thường chỉ áp dụng ở trung quốc.
b.Mạng kết hợp cáp quang và cáp đồng trục. ( HFC – Hybrid Fiber Coaxial ):
 
      b . Mạng truyền hình cáp hữu tuyến kết hợp cáp quang và cáp đồng trục HFC:     
  
         _ HFC - Hybrid Fiber Coaxial: sử dụng đồng thới cáp quang và cáp đồng trục để truyền dẫn tín hiệu. Mạng HFC có thể triển khai theo nhiều cấp độ tuỳ theo quy mô của mạng.
   
         _ Với quy mô nhỏ có thể sử dụng sơ đồ hình sao, với quy mô của mạng lớn có thể sử dụng sơ đồ hình vòng kín. Độ an toàn của mạng được tăng lên nhờ cấu trúc hình vòng kính.

         * Ưu điểm :Dải thông cực lớn, suy hao tín hiệu rất thấp, ít bị nhiễu điện từ, chống lão hoá và ăn mòn hoá học tốt.

       c . Mạng quang hoá hoàn toàn :
        
          _  Một mạng truyền dẫn được quang hoá hoàn toàn từ nhà cung cấp dịch vụ đến tận các thuê bao là ước mơ của của mọi nhà cung cấp dịch vụ truyền hình cũng như viễn thông nhờ ưu điểm tuyệt vời của cáp quang. Tuy nhiên, việc truyển khai một mạng quang hoàn toàn tại thời điểm hiện nay gặp một số nhược điểm sau :
  +  Giá thành cáp quang, thiết bị phát quang, bộ chia quang,… hiện còn rất cao so với các thiết bị tưng ứng cho cáp đồng trục .

            Hiện nay các thiết bị đầu cuối truyền hình cáp tại thuê bao hoàn toàn không có đầu vào quang, vì vậy muốn thu được chương trình cần có thiết bị thu quang và chuyển đổi quang sang tín hiệu RF. Đây là trở ngoại lớn vì thiết bị này chưa có sẵn trong dân dụng và giá thành rất cao.
        
            _ Căn cứ vào phân tích các ưu điểm và nhược điểm của ba phương án nêu trên, ta có thể đưa ra kết luận sau:

            _ Sử dụng cáp quang hoàn toàn cho mạng truyền dẫn tín hiệu của truyền hình cáp hữu tuyến là điều lý tưởng về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, xét về mặt kinh tế thì việc sử dụng quang hoá hoàn toàn không có lợi và rất khó khả thi vì giá thành quá cao.

            _ Khi so sánh giũa phương án sử dụng cáp đồng trục hoàn toàn với phương án sử dụng kết hợp cáp quang và cáp đồng trục cho thấy với quy mô mạng còn nhỏ, có dung lượng khoảng từ 5000 thuê bao trở lại thì cáp đồng trục hoàn toàn sẽ có chi phí thấp hơn và vẫn bảo đảm chất lượng. Mạng có quy mô lớn từ 10000 thuê bao trở lên thì sử dụng mạng kết hợp HFC gía thành thấp hơn và chất lượng tín hiệu sẽ tốt hơn, quy mô mạng càng lớn thì phương án mạng HFC sẽ càng hiệu quả.
   
        ** Ngoài ra dịch vụ truyền hình cáp còn có tính ưu việt sau:
        
            _ Dịch vụ CATV cung cấp cho bạn khả năng kết nối internet nhanh gấp 100 lần tốc độ internet qua đường điện thoại . Một  dịch vụ rất an toàn ,hiệu quả.

             _ Truyền hình theo yêu cầu ( VOD ) là một hệ thống cung cấp dịch đa phương tiện ( multimedia ) , khách hàng có thể lựa chọn dịch vụ từ cơ sở dữ liệu đã được lưu trữ sẵn tại trung tâm theo ý muốn.

             _ Trên cơ sở hạ tầng mạng HFC tốc độ cao, hỗ trợ chất lượng dịch vụ ( QoS ) cho các ứng dụng chạy trên mạng có thể xây dựng hệ thống truyền hình hội nghị tư xa với tốc độ và chất lượng hơn hẳn các mạng khác như ADSL hoặc ISDN …
lắp đặt camera giám sát an ninh tuần tra an ninh,hệ thống âm thanh hội nghị hội thảo,lắp đặt hệ thống mạng,lắp đặt anten parabol hệ thống truyền hình,chuông cửa hình,hệ thống kiểm soát ra vàohttp://www.vietnhattech.com.vn/giai-phap/he-thong-Truyen-Hinh-catv-smatv/He-thong-Truyen-hinh-Cap-Ve-tinh-87.html
Tác giả bài viết: Thảo Nguyên
Nguồn tin: vietnhattech
Trong video analog, hình ảnh bao gồm các dòng hay còn gọi là TV line (dòng TV), vì công nghệ analog có nguồn gốc từ công nghệ TV. Trong hệ thống kỹ thuật số, hình ảnh được tạo thành từ các điểm ảnh (các yếu tố ảnh- pixels).
Độ phân giải của camera an ninh kỹ thuật số được đo bằng số lượng cả điểm ảnh trên chip cảm ứng hình ảnh.
Camera quan sát, Hệ thống camera quan sát giám sát từ xa, có nhiều loại camera quan sát qua mạngcamera quan sát ip ( internet protocol), camera quan sát loại POE ( Power over Ethernet), camera giám sát ngày đêm ( IR camera có đèn hồng ngoại), camera quan sát giám sát dạng ngụy trang, camera giám sát dạng không dây ( wireless camera)
Độ phân giải NTSC và PAL


Ở Bắc Mỹ và Nhật Bản, NTSC (Ủy ban quốc gia hệ thống truyền hình)  là chuẩn video analog thịnh hành, trong khi ở châu Âu, chuẩn PAL (hệ thống truyền hình màu PAL/ Pha theo từng dòng quét của ảnh) được dùng thường xuyên hơn. Cả hai chuẩn này đều bắt nguồn từ ngành công nghiệp truyền hình. NTSC có độ phân giải là 480 TVL (480 dòng quét đơn), và sử dụng tỷ lệ 60 trường xen kẽ mỗi giây (hay 30 khung hình ảnh được truyền đi trong mỗi giây). PAL có độ phân giải 576 TV line (dòng quét đơn), và sử dụng tỷ lệ 50 trường quét xen kẽ/giây (hay 25 khung hình ảnh/giây). Tổng lượng thông tin/giây là bằng nhau trong cả hai chuẩn này.

Khi analog video được số hóa, số lượng điểm ảnh lớn nhất có thể tạo được dựa trên số TV line có thể được số hóa. Trong khi chuẩn NTSC, kích cỡ hình ảnh được số hóa lớn nhất là 720x480 pixels thì với PAL, kích cỡ này là 720x576 pixels (D1). Độ phân giải được sử dụng thường xuyên nhất là 4CIF 704x576 PAL / 704x480 NTSC.

Độ phân giải 2CIF là 704x240 (NTSC) hoặc 704x288 (PAL) pixels có nghĩa là chia số dòng quét ngang cho 2. Trong hầu hết các trường hợp, mỗi dòng quét ngang biểu diễn gấp đôi, hay còn gọi “dòng quét gấp đôi”, khi hiển thị trên một máy giám sát để giữ đúng tỷ lệ trong hình ảnh. Đây là một cách để giải quyết vấn đề hình ảnh chuyển động bị mờ trong quét xen kẽ.

Đôi khi, một phần tư của hình ảnh CIF được sử dụng, thường được gọi tắt là QCIF (viết tắt của Quarter CIF).

                     Camera quan sát, Hệ thống camera quan sát giám sát từ xa, có nhiều loại camera quan sát qua mạng,
Sự khác biệt giữa PAL và NTSC bắt đầu sâu xa từ hệ thống năng lượng mà thế giới đang sử dụng. Ở Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, và một số quốc gia ở Châu Mỹ sử dụng hệ thống điện có tần số 60Hz, vì lý do về kỹ thuật xử lý thông tin số dải truyền đi phụ thuộc vào tần số của dòng điện. Vì vậy tín hiệu được xử lý và truyền đi thành 60 dải trong một giây (thông thường còn gọi là tần số quét ngang 60Hz). Chúng ta biết hầu hết các công nghệ truyền hình hay video đều sử dụng công nghệ Interlace Scan (công nghệ quét dòng xen kẽ) để tạo nên một hình ảnh hoàn thiện. Do tốc độ quét quá nhanh nên 2 dải quét này người ta coi nó tạo thành một khung hình. Vì vậy với 60 dải được truyền đi trong giây tạo thành 30 khung hình trong một giây. Đó cũng chính là nguyên do tạo nên 30 khung/s cho chuẩn NTSC.

Còn hệ PAL thì sao ?, chúng ta biết ở các nước Châu Âu, một số nước Châu Á trong đó có Việt Nam chúng ta sử dụng hệ thống điện có tần số là 50Hz, bằng cách giải thích tương tự như trên hệ PAL sẽ có số khung truyền đi trong một giây là 25 khung/s

Thử so sánh hai hệ về chất lượng hình ảnh : Rõ ràng với 576 dòng quét và 480 dòng quét hệ PAL cho chúng ta hình ảnh sắc nét hơn hẳn hệ NTSC. Nhưng với 30 khung/s so với 25 khung/s thì hệ NTSC cho chúng ta hình ảnh mượt hơn rất nhiều. Một điều chúng ta nên chú ý là khi chuyển hình ảnh từ NTSC sang PAL hình ảnh sẽ bị mờ hơn so với khi xem nguyên bản. Bởi kích thước khung ảnh phóng lên sẽ bị giãn ra, do vậy chất lượng sẽ kém hơn. Còn chuyển từ PAL sang NTSC có thể gây ra hình ảnh bị giật, do số khung/s của PAL ít hơn NTSC.

Ngoài tần số quét ngang còn có tần số quét dọc, chính vì vậy tạo nên kích thước khung hình của hai hệ này cũng khác nhau, vì vậy khi xem chúng ta vẫn thường thấy một số hiện tượng co hình (không full màn hình) ở một số bộ phim hay một số kênh truyền hình.

Đến đây chúng ta đã phần nào hiểu tại sao ở Việt Nam bạn nhất thiết phải dùng hệ PAL mà không phải là NTSC rồi phải không. Không phải nguyên do thiết bị của chúng ta quyết định mà là do lưới điện của chúng ta !!!

Độ phân giải VGA

Với sự ra đời của camera mạng, 100% các hệ thống kỹ thuật số có thể được thiết kế. Điều này cho thấy các hạn chế của chuẩn NTSC và PAL không hợp lý. Một vài độ phân giải bắt nguồn từ ngành công nghiệp máy tính đã được giới thiệu, mang lại sự linh động hơn, hơn nữa, chúng là các chuẩn trên toàn thế giới.

VGA viết tắt của Video Graphics Array, là một hệ thống hiển thị đồ họa cho các máy tính, ban đầu được IBM phát triển. Độ phân giải này được định nghĩa là 640x480 pixels, một kích thước rất giống với NTSC và PAL. Độ phân giải VGA thông thường phù hợp hơn với các camera mạng vì hình ảnh video trong hầu hết các trường hợp sẽ được hiển thị trên màn hình máy tính, với độ phân giải trong VGA hay trong nhiều VGA. Quarter VGA (QVGA – VGA ¼) có độ phân giải 320x240 pixels cũng là một định dạng được sử dụng phổ biến, rất gần với CIF. QVGA đôi khi được gọi là độ phân giải SIF (Định dạng trao đổi chuẩn), dễ bị nhầm lẫn với CIF.

Các độ phân giải dựa trên VGA khác là XVGA (1024x768 pixels) và 1280x960 pixels, gấp VGA 4 lần, cho ta độ phân giải megapixel.

Độ phân giải MPEG

Độ phân giải MPEG luôn được nghĩa là một trong các độ phân giải sau:

*   704x576 pixels (TV PAL)

*   704x480 pixels (TV NTSC)

*   720x576 pixels (PAL or D1)

*   720x480 pixels (NTSC or D1)
 camera giám sát ngày đêm ( IR camera có đèn hồng ngoại), camera quan sát giám sát dạng ngụy trang, camera giám sát dạng không dây ( wireless camera)
Độ phân giải Megapixel

Độ phân giải càng cao, thì các chi tiết càng có thể được nhìn thấy rõ trong một hình ảnh. Đây là một điều đáng xem xét quan trọng trong các ứng dụng giám sát video, nơi mà một hình ảnh có độ phân giải cao có thể giúp nhận dạng tội phạm. Độ phân giải cao nhất của NTSC và PAL, trong analog camera, sau đó tính hiệu video được số hóa trong một đầu ghi kỹ thuật số (DVR) hay trong một video server, là 400,000 pixels (704x576 = 405,504). 400,000 bằng với 0.4 Megapixel.

Sử dụng định dạng CIF, ví dụ ¼ hình ảnh, độ phân giải sẽ giảm xuống thành 0.1 Megapixel.

Thậm chí mặc dù ngành công nghiệp giám sát video luôn xoay sở để tồn tại với các hạn chế này, ngày nay công nghệ camera mạng làm cho các độ phân giải cao là có thể thực hiện. Một định dạng megapixel thông thường là 1280x1024, cho ta độ phân giải 1.3 megapixel, 3 lần cao hơn của các analog camera. Camera với độ phân giải 2 megapixel và 3 megapixel cũng tồn tại, và thậm chí các độ phân giải cao hơn vẫn được chờ đợi có thể đạt được trong tương lai.

Camera mạng megapixel cũng mang lại ích lợi về các tỷ lệ co (hệ số co) khác nhau. Trong một chuẩn TV, một tỷ lệ co 4:3 được sử dụng, trong khi trong TV màn hình rộng hay phim ở rạp (phim cine) là 16:9. Lợi thế của tỷ lệ co này là, trong hầu hết các hình ảnh, phần trên và phần dưới của hình bị bỏ qua, tuy nhiên những điểm ảnh quý báu ở phần giữa được tập trung, và do đó tiết kiệm băng thông và không gian lưu trữ. Trong camera mạng, bất kỳ tỷ lệ co nào cũng có thể được sử dụng.

Ngoài ra, Zoom/ quay ngang/ quay dọc kỹ thuật số có thể tiến hành mà không làm mất độ phân giải. Người điều hành có thể lựa chọn phần nào của hình ảnh megapixel nên được hiển thị. Điều này không ám chỉ tới bất kỳ chuyển động nào từ camera. Nó đảm bảo nhiều độ tin cậy cao hơn.

                                                     camera giám sát ngày đêm ( IR camera có đèn hồng ngoại), camera quan sát giám sát dạng ngụy trang, camera giám sát dạng không dây
Tác giả bài viết: VIETNHATTECH
Nguồn tin: www.vietnhattech.com.vn
Mặc dù hệ thống truyền hình tương tự và video được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới nhưng các quốc gia khác nhau lại sử dụng các tiêu chuẩn video khác nhau. Phổ biến nhất đó là NTSC (National Television System Committee) và PAL (Phase Alternating Line).
Truyền hình, camera CCTV system,  mặc dù rất phổ biến nhưng hai thuật ngữ Pal và NTSC hầu hết trong chúng ta không thể phân biệt được rõ ràng bản chất giữa NTSC và PAL. Bởi đại đa số chúng ta không phải là những người làm chuyên môn trong lĩnh vực hình ảnh, video.
hội nghị truyền hình đa điểm, thiết bị hệ thống hội nghị truyền hình
NTSC là tiêu chuẩn video tương tự được sử dụng ở Bắc Mỹ và hầu hết Nam Mỹ. Ở tiêu chuẩn NTSC có 30 khung hình ảnh được truyền đi trong mỗi giây. Mỗi khung hình được tạo bởi 525 dòng quét đơn.
PAL cũng là tiêu chuẩn video tượng tự, nhưng so với NTSC số dòng quét cao hơn, lên tới 625 dòng đơn cho mỗi khung hình. Nhưng số khung truyền đi trong mỗi giây là 25 khung.
Sự khác biệt giữa PAL và NTSC bắt đầu sâu xa từ hệ thống năng lượng mà thế giới đang sử dụng. Ở Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, và một số quốc gia ở Châu Mỹ sử dụng hệ thống điện có tần số 60Hz, vì lý do về kỹ thuật xử lý thông tin số dải truyền đi phụ thuộc vào tần số của dòng điện. Vì vậy tín hiệu được xử lý và truyền đi thành 60 dải trong một giây (thông thường còn gọi là tần số quét ngang 60Hz). Chúng ta biết hầu hết các công nghệ truyền hình hay video đều sử dụng công nghệ Interlace Scan (công nghệ quét dòng xen kẽ) để tạo nên một hình ảnh hoàn thiện. Do tốc độ quét quá nhanh nên 2 dải quét này người ta coi nó tạo thành một khung hình. Vì vậy với 60 dải được truyền đi trong giây tạo thành 30 khung hình trong một giây. Đó cũng chính là nguyên do tạo nên 30 khung/s cho chuẩn NTSC.
Còn hệ PAL thì sao??, chúng ta biết ở các nước Châu Âu, một số nước Châu Á trong đó có Việt Nam chúng ta sử dụng hệ thống điện có tần số là 50Hz, bằng cách giải thích tương tự như trên hệ PAL sẽ có số khung truyền đi trong một giây là 25 khung/s
Thử so sánh hai hệ về chất lượng hình ảnh : Rõ ràng với 625 dòng quét và 525 dòng quét hệ PAL cho chúng ta hình ảnh sắc nét hơn hẳn hệ NTSC. Nhưng với 30 khung/s so với 25 khung/s thì hệ NTSC cho chúng ta hình ảnh mợt hơn rất nhiều. Một điều chúng ta nên chú ý là khi chuyển hình ảnh từ NTSC sang PAL hình ảnh sẽ bị mờ hơn so với khi xem nguyên bản. Bởi kích thước khung ảnh phóng lên sẽ bị giãn ra, do vậy chất lượng sẽ kém hơn. Còn chuyển từ PAl sang NTSC có thể gây ra hình ảnh bị giật, do số khung/s của PAL ít hơn NTSC.
Ngoài tần số quét ngang còn có tần số quét dọc, chính vì vậy tạo nên kích thước khung hình của hai hệ này cũng khác nhau, vì vậy khi xem chúng ta vẫn thường thấy một số hiện tượng co hình (không full màn hình) ở một số bộ phim hay một số kênh truyền hình.
Đến đây chúng ta đã phần nào hiểu tại sao ở Việt Nam bạn nhất thiết phải dùng hệ PAL mà không phải là NTSC rồi phải không. Không phải nguyên do thiết bị của chúng ta quyết định mà là do lưới điện của chúng ta !!!


Tuesday, December 10, 2013

Việt Nhật cung cấp và lắp đặt thiết bị hệ thống âm thanh phòng hội thảo không dây, âm thanh hội nghị, thiết kế cung cấp và lắp đặt hệ thống âm thanh hội nghị, thi công hệ thống âm thanh phòng họp, lắp đặt âm thanh hội trường,âm thanh thông báo trong bệnh viện
 Âm thanh thông báo công cộng, âm thanh thông báo trong nhà máy, âm thanh trong siêu thị, âm thanh cho trường học. Âm thanh hội nghị hội thảoâm thanh hội nghị từ xa có hình, âm thanh hội thảo không dây ( thu phát hồng ngoại), âm thanh thông báo cho nhiều nhà xưởng ở xa nhau, âm thanh thông báo công cộng cho nhiều khu vực khác nhau. Hệ thống âm thanh hội nghị không dây, âm thanh hội thảo không dâyâm thanh phòng họp không dây kết hợp hệ thống máy chiếu trình chiếu không dây wireless, hệ thống âm thanh nhà xưởngâm thanh nhà máyhệ thống âm thanh thông báo từ xa, hệ thống âm thanh thông báo cho nhiều khu vực, hệ thống âm thanh trong tòa nhà, âm thanh cho văn phòng, nhà hàng, âm thanh cho nhà máy xí nghiệp, âm thanh trường học, nơi công cộng, âm thanh hội trường, hệ thống âm thanh bệnh viện.

âm thanh hội thảo,am thanh hoi thao, âm thanh hội nghị, thi công âm thanh phòng họp

Ứng dụng hệ thống âm thanh TOA dùng cho phòng hội thảo, phòng huấn luyện.
Các THIẾT BỊ âm thanh khác như tăng âm xách tay, ampli xách tay, âm pli xách tay không dây, âm thanh thông báo, loa cột, hệ thống loa vệ tinh, loa ngoài trời chống nước, loa trong nhà, loa cho thiết kế nội thất, micro có dây, micro không dây, bộ khuếch đại micro, bộ khuếch đại đường truyền micro, megaphone khoác vai, megaphone cầm tay, megatalk đeo thắt thắc lưng dành cho hướng dẫn viên du lịch, thiết bị phiên dịch không dây dùng cho phiên dịch viên, hướng dẫn du lịch, tăng âm truyền thanh cố định để bàn, hệ thống âm thanh hội thảo.
Hệ thống âm thanh thông báo hay còn gọi là âm thanh công cộng Public address System, thường được thiết kế lắp đặt hệ thống âm thanh thông báo nhà ga, âm thanh thông báo sân bay, nhà xưởng, xí nghiệp. Đối với hệ thống âm thanh công cộng được lắp đặt tại các cao ốc, âm thanh công cộng lắp đặt tại các Tower, building, văn phòng hệ thống âm thanh được dùng để thông báo các thông tin, thông báo di tản khẩn cấp, hoặc đơn giản là để phát âm thanh nhạc nền.
Trong các tòa nhà lớn, siêu thị, trường học, khu công nghiệp, nhà hàng, khách sạn...thì hệ thống am thanh cong cong là không thể thiếu dành cho việc thông báo công cộng, chơi nhạc nền phục vụ khách hàng, kết hợp làm hệ thống cảnh báo trong trường hợp khẩn cấp.

lap-dat-am-thanh-hoi-nghi-hoi-thao-khong-day-am-thanh-phong-hop-co-day-am-thanh-hoi-truong
Tác giả bài viết: vietnhattech
Nguồn tin: www.vietnhattech.com.vn
Thiết bị hệ thống âm thanh hội nghị hội thảo không dây, âm thanh phòng họp hội trường có dây, thiết bị và sơ đồ lắp đặt hệ thống âm thanh hội nghị không dây, sơ đồ lắp đặt hệ thống âm thanh phòng họp có dây.
Giới thiệu giải pháp hệ thống âm thanh hội nghị hội thảo không dâyâm thanh phòng họp hội trường có dây,thiết bị âm thanh thông báo công cộng và sơ đồ lắp đặt hệ thống âm thanh hội nghị hội thảo không dâyâm thanh phòng họp hội trường có dây.
hệ thống âm thanh phòng họp, âm thanh hội thảo không dây, âm thanh hội nghị,âm thanh hội trường, âm thanh cho xí nghiệp, âm thanh trường học

Hệ thống âm thanh hội nghị có dây, sơ đồ lắp đặt hệ thống âm thanh phòng họp có dây.
hệ thống âm thanh nhà máy, âm thanh nhà xưởng, Cách lắp đặt loa trong nhà máy, cách bố trí loa cho xí nghiệp hệ thống âm thanh công cộng, âm thanh loa

Thiết bị chính Hệ thống âm thanh hội nghị có dây, sơ đồ lắp đặt hệ thống âm thanh phòng họp có dây như âmpli trung tâm, micro chủ tọa, các micro đại biểu, hệ thống ampli loa.
hệ thống âm thanh nhà máy, âm thanh nhà xưởng, Cách lắp đặt loa trong nhà máy, cách bố trí loa cho xí nghiệp hệ thống âm thanh công cộng

Hệ thống âm thanh hội nghị không dây, sơ đồ lắp đặt hệ thống âm thanh phòng họp không dây, các thiết bị âm thanh hội thảo hồng ngoại không dây TS-800.

Hệ thống âm thanh hội nghị không dây có chức năng biểu quyết, sơ đồ lắp đặt thiết bị hệ thống âm thanh phòng họp không dây có chức năng biểu quyết TS-800.

Hệ thống âm thanh hội nghị không dây có chức năng biểu quyết, sơ đồ lắp đặt thiết bị hệ thống âm thanh phòng họp không dây có chức năng biểu quyết TS-900.

thiết bị âm thanh hội thảo không dây có chức năng biểu quyết, sơ đồ âm thanh hội nghị không dây có chức năng biểu quyết, mô hình âm thanh trường học

Sơ đồ tổng quan đấu nối thiết bị Hệ thống âm thanh hội nghịâm thanh hội thảoâm thanh phòng họp hồng ngoại không dây.

             thiết bị âm thanh hội thảo không dây có chức năng biểu quyết, sơ đồ âm thanh hội nghị không dây có chức năng biểu quyết, mô hình âm thanh trường học

Sơ đồ thiết kế thực tế và thi công lắp đặt thiết bị Hệ thống âm thanh hội nghịâm thanh hội thảoâm thanh phòng họp hồng ngoại không dây, hệ thống mạng thiết bị trình chiếu không dây với máy chiếu không dây ( wireless projector).
thiết kế hệ thống âm thanh hội thảo không dây có chức năng biểu quyết, sơ đồ âm thanh hội nghị không dây có chức năng biểu quyết, mô hình âm thanh trường học

Các công trình đã thực hiện

các hệ thống âm thanh hội thảo không dây có chức năng biểu quyết, sơ đồ âm thanh hội nghị không dây có chức năng biểu quyết, mô hình âm thanh trường học